ca-tre-don-tinh

Kỹ thuật nuôi cá trê

KỸ THUẬT NUÔI CÁ TRÊ

Nuôi trong ao đất

Diện tích ao từ 500 – 1000m2 Mực nước dao động từ 1,6 – 1,8 m. Ao nuôi gần nguồn cung cấp nước, cấp thoát nước chủ động. Đáy ao ít bùn, bờ ao vững chắc.

Tát cạn ao, bón vôi 10 kg/100 m2. Phơi đáy ao 3 – 4 ngày, sau đó cấp nước vào qua lưới lọc. Sử dụng bột đậu nành hay bột cá để bón với liều lượng từ 2 – 3 kg/100 m2 nhằm gây nuôi thức ăn tự nhiên.

Mật độ thả nuôi

Cá giống có kích cỡ đồng đều, kích thước từ 5 – 10 cm, không xây xát, dị hình. Mật độ thả 20 con/m2. Nên thả cá vào lúc trời mát.

Trước khi thả cá cần tắm cá bằng nước muối liều 3 – 5g/lít nước.

Thức ăn

Sử dụng thức ăn công nghiệp có bổ sung thức ăn tự chế từ phụ phế phẩm nông nghiệp như cám, tấm, rau, bèo, … phụ phế phẩm nhà máy chế biến thủy sản, phế phẩm từ lò mỗ gia súc, các loại tôm tép, cua, ốc, cá tạp. Tuỳ theo các giai đoạn phát triển, lượng thức ăn hằng ngày dao động từ 5 – 7%/khối lượng cá trong ao. Hàm lượng đạm cần thiết để duy trì cá phát triển tốt ở tháng thứ 1 là 28 – 30%, tháng thứ 2 là 24 – 26 % và tháng thứ 3 là 18 – 20 %. Mỗi ngày cho cá ăn từ 2 lần. Nên dùng sàng và lập nhiều điểm cho ăn ở trong ao để cá phát triển đều hơn.

Chăm sóc và quản lý ao nuôi

Cần duy trì mực nước ổn định. Định kỳ thay nước 1lần/tuần mỗi lần thay 1/3 nước trong ao.

Theo dõi hoạt động của cá hằng ngày. Điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp sao cho vừa đủ không thừa mà cũng không thiếu.

  • Định kỳ 2 lần/tuần trộn thêm vitamine C (60 – 100 mg/kg thức ăn) và chất khoáng vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cũng như cá tăng trưởng tốt hơn.
  • Quan tâm và phòng ngừa bệnh cho cá.
  • Thường xuyên kiểm tra bờ, bọng, rào chắn cẩn thận đề phòng sự thất thoát cá nuôi nhất là vào mùa mưa lũ.

Thu hoạch

Sau thời gian 5 – 6 tháng nuôi cá Trê sẽ đạt kích cỡ thương phẩm. Có thể thu hoạch một lần.

Theo Báo Khuyến Nông (22/05/2024)

Kỹ thuật nuôi cá rô phi đơn tính

KỸ THUẬT NUÔI CÁ RÔ PHI ĐƠN TÍNH

Chuẩn bị ao nuôi

Đối với ao nuôi luân canh, xen vụ, một vụ tôm-một vụ cá với mật độ 1 – 2 con/m2 thì việc chuẩn bị ao nuôi trở nên đơn giản, nhưng chú ý đến vấn đề diệt cá tạp, rắn nước. Có thể bón thêm vôi sống được xay trực tiếp từ đá vôi, vỏ sò, ốc… số lượng từ 300 – 500 kg/ha và phân hữu cơ (phân heo, gà, trâu, bò…) ủ thật hoai, bón lót vào nền đáy ao từ 300 – 500 kg/ha.

Đối với các ao nuôi tăng sản, mật độ từ 5 – 7 con/m2 trở lên, thời gian nuôi
kéo dài, việc chuẩn bị ao cần làm kỹ các khâu dọn bùn dơ, phơi nắng 5 – 7 ngày, cày xới nền đáy. Lượng vôi và phân bón nhiều hơn so với mật độ nuôi thưa và phải bón bổ sung thêm trong quá trình nuôi.

Gây màu nước

Sau khi thu hoạch tôm và công việc bón vôi, phân, diệt tạp được thực hiện xong, đóng khung lưới lọc cá tạp và cho nước vào 30 – 40 cm sau 4 – 5 ngày nước lên màu xanh nhạt, xanh vàng hoặc xanh lá chuối thì tiếp tục cấp nước vào ao đạt mực 1m và chuẩn bị thả cá giống.

Một số điều cần lưu ý khi nuôi cá trong ao:

  • Nên tận dụng lại các nguồn nước thải ra từ các ao nuôi tôm vì nguồn nước này chứa nhiều loại tảo là nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào cho cá rô phi.
  • Có thể nuôi cá rô phi trong ao nước ngọt hoặc ao ương 1 – 2 tháng với mật độ dày (15 – 20 con/m2) vào thời điểm tháng 6,7. Đến khi thu tôm (tháng 9 – 10) chuyển số cá này sang ao nuôi tôm, cá sẽ lớn nhanh, rút ngắn được thời gian nuôi.

Cá giống

Cá giống đạt các tiêu chuẩn:

  • Hình dạng cân đối, không dị hình, không xây xát.
  • Màu sắc tươi sáng, bơi lội nhanh.

Khi thả cá ta phải để bao, túi chứa cá xuống ao từ 15 – 20 phút, sau đó đổ cá ra các thau, chậu để thuần dưỡng độ mặn. Thêm nước mặn từ từ vào thau, chậu để tăng dần sau 1 giờ tăng lên 2 – 3‰ và tăng dần đến khi bằng độ mặn của nước ao. Đối với ao đìa có độ mặn từ 15‰ trở xuống thì không cần phải thuần dưỡng mà có thể thả cá giống trực tiếp xuống.

Mật độ nuôi

Khi mới thả cá giống có trọng lượng 0,5 – 1 gam/con tương đương với 1.000 – 2.000 con/kg. Cá giống có thể thả nuôi trong ao nhỏ với mật độ 15 – 20 con/m2, sau một tháng chuyển sang ao lớn hơn, giảm mật độ xuống còn 7 – 10 con/m2 và sau 2 tháng có thể chuyển sang ao có mật độ nuôi phù hợp 2 – 3 con/m2.

Trong điều kiện bình thường nuôi luân canh một vụ tôm, một vụ cá có thể nuôi ở mật độ 2 – 3 con/m2. Trong điều kiện chăm sóc quản lý tốt và quản lý tốt có thể nuôi ở mật độ 3 – 5 con/m2.Trong nuôi tăng sản, có máy quạt nước có thể nuôi ở mật độ 5 – 10 con/m2.

Cho cá ăn

Sử dụng thức ăn tự chế biến gồm các thành phần:

  • Cá tạp, cá vụn, cua, ghẹ nhỏ hoặc các chế phẩm từ các lò mổ gia súc tỷ lệ: 40 – 50%
  • Bột bắp, bột mì, bột khoai lang, bột gạo: 20 – 30%
  • Cám gạo: 10 – 20%
  • Bã đậu nành, đậu phộng: 10 – 20%

Cách chế biến: Các thành phần trên được nấu chín, trộn với cám gạo, xay đùn ra sợi, phơi ráo và cho ăn hết trong ngày.

Cho ăn: Cho ăn mỗi ngày 2 lần: sáng vào lúc 5 – 6 giờ và chiều vào lúc 17 – 18 giờ. Lượng thức ăn cho ăn:

  • Tháng đầu: lượng thức ăn trong tháng bằng 3 – 5% trọng lượng đàn cá.
  • Tháng thứ 2: lượng thức ăn trong ngày bằng 2 – 3% trọng lượng đàn cá.
  • Tháng thứ 3 trở đi: lượng thức ăn trong ngày bằng 0,5 – 1 % trọng lượng cá.

Trong nuôi cá rô phi cần chú ý kết hợp cho ăn với việc bón phân hữu cơ sẽ gia tăng năng suất cá nuôi.

Để tạo thức ăn tự nhiên phong phú có thể bón phân hữu cơ (thường là phân heo, gà, vịt, trâu, bò …) và phân vô cơ (Urê, N.P.K…) hai loại phần này được dùng kết hợp hoặc riêng lẻ tuỳ điều kiện màu mỡ của từng ao nuôi. Việc tạo ra thức ăn tự nhiên tốt (màu nước đậm, mật độ tảo dày) hoặc những ao đìa giàu dinh dưỡng được xem là biện pháp hữu hiệu nhất để tăng năng suất cá nuôi trong ao, đìa

Chăm sóc và quản lý

Hàng ngày quan sát rò rỉ xung quanh bờ ao, khung lưới cống và hoạt động của cá. Nếu thấy cá nuôi nổi đầu từ lúc sáng sớm thì phải cung cấp thêm nước. Định kỳ 10 – 15 ngày kiểm tra cá bằng chài, cân đong tự tăng trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức ăn của cá hàng ngày.

Thu hoạch

Sau khi nuôi 5 – 6 tháng, cá đạt trọng lượng 0,5 – 0,6 kg/con, có thể thu hoạch cá thịt, có hai cách thu.

  • Thu tỉa: tháo nước ao cạn ở mức nước 40 – 50cm, kéo lưới thu tỉa cá lớn.
  • Thu sạch: kéo lưới bắt nhiều lần sau đó bơm cạn bắt hết số cá còn lại.

Theo Báo Khuyến Nông (22/05/2024)

ky-thuat-nuoi-tom-cang-xanh-hieu-qua

Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh hiệu quả

KỸ THUẬT NUÔI TÔM CÀNG XANH

LUÂN CANH HIỆU QUẢ

Lựa chọn địa điểm nuôi tôm

Chọn địa điểm nuôi tôm cần đáp ứng các chỉ tiêu sau:

  • Nguồn nước đảm bảo cấp tiêu chủ động.
  • Bờ bao phải giữ được nước và chất đất ít nhiễm phèn.
  • Không bị ảnh hưởng bởi nước thải công nghiệp và nước bẩn.
  • Tiện đi lại và chăm sóc quản lý.

Thiết kế công trình

Diện tích ruộng nuôi tuỳ theo từng điều kiện cụ thể thường dao động 0,5 – 5 ha.

Ruộng phải có đê bao đảm bảo giữ mức nước trên ruộng tối thiểu 0,5m đối với ruộng có mương bao và 0,8 m đối với ruộng không mương bao.

Đối với ruộng nuôi có mương bao, diện tích mương bao chiếm 20 – 25% tổng diện tích ruộng. Đối với ruộng không có mương bao tốt nhất nên có một khu vực ương riêng (vị trí ao ương thường nằm ngay bên cạnh ao nuôi).

Ruộng nuôi có cống cấp và thoát riêng.

Chuẩn bị ruộng nuôi

Sau khi thu hoạch lúa, dọn sạch gốc rạ, trải đều rơm ra khắp ruộng và đốt trước khi đưa tôm lên ruộng 7 ngày; dọn cỏ xung quanh bờ bao; sên vét bùn đáy ở mương bao.

Bón vôi: sử dụng CaO 10 – 15 kg/100 m2. Vôi được rãi khắp mương bao và bờ ruộng.

Phơi mương bao 2 – 3 ngày.

Cấp nước qua lưới lọc mịn. Khi nước trong mương bao đạt 1 – 1,2 m hay 0,8m (đối với ruộng không có mương bao), sau 2 – 3 ngày sau tiến hành thả giống.

Mùa vụ nuôi

Mô hình 1 vụ lúa đông xuân 1 vụ tôm thường bắt đầu thả giống tháng 3-4 sau khi thu hoạch lúa đông xuân, thời gian nuôi 5 – 6 tháng.

Cách chọn tôm giống

Chỉ tiêu để chọn giống nuôi:

  • Tôm nuôi phải khỏe mạnh không có dấu hiệu bị nhiễm bệnh.
  • Chiều dài thân từ 10 – 15 mm (Post 15).
  • Tôm có màu cam nhạt hoặc màu xanh trong suốt.
  • Hình thái cấu tạo ngoài đã hoàn chỉnh như tôm trưởng thành, thân và các phụ bộ bên ngoài không bị tổn thương.
  • Tôm hoạt động mạnh bơi ngược dòng nước, thường bám vào thành bể, háo ăn và bắt giữ thức ăn tốt.
  • Thông tin chi tiết hơn có thể tham khảo tại https://official-gates-of-olympus.com/ gates of olympus 1000.

Thả giống

Đối với tôm bột P15 nên ương 2 – 3 tuần trong ao ương trước khi cho ra ruộng nuôi, nếu không có ao ương riêng có thể ngăn một phần ruộng nuôi bằng lưới để ương hay một phần mương bao nhằm hạn chế hao hụt và tiện chăm sóc.

Mật độ ương: 300 – 500 con/m2.

Mật độ thả nuôi: 5 – 10 con/m2 (tính cho cả ruộng).

Thả tôm lúc sáng sớm hay chiều mát. Trước khi thả tôm cần ngâm bao tôm trong nước ao từ 20 – 30 phút để cân bằng nhiệt độ bên trong bao và bên ngoài môi trường nước. Khi nhiệt độ bên trong và bên ngoài bao tôm tương đối cân bằng thì mở miệng bao cho nước bên ngoài vào trong bao, sau đó hạ từ từ cho tôm bơi ra ngoài.

Không nên thả tập trung mà phải thả nhiều nơi và cách bờ khoảng 2,0m.

Theo Báo Khuyến Nông (21/05/2024)

ky-thuat-nuoi-tom-su

Kỹ thuật nuôi tôm sú đạt hiệu quả kinh tế cao

KỸ THUẬT NUÔI TÔM SÚ ĐẠT HIỆU QUẢ KINH TẾ CAO

Tôm sú là một trong những giống tôm không khó nuôi nhưng để đạt được sản lượng lớn cần phải áp dụng đúng kỹ thuật, dưới đây là các khâu quan trọng trong nuôi tôm công nghiệp.

Chuẩn bị ao lắng

Nước mặn/lợ được đưa vào ao lắng, trữ lắng 7 – 10 ngày, sát trùng, diệt mầm bệnh bằng Chlorin 15 – 30ppm (theo qui trình sử dụng clorin).

Chuẩn bị ao nuôi

  1. Thiết kế ao nuôi
  • Diện tích ao 0,3 – 0,5 ha. Ao có dạng hình chữ nhật, chiều dài gấp 2 – 3 lần chiều rộng.
  • Bờ phải cao, không rò rỉ, xung quanh bờ có lưới chắn để hạn chế địch hại từ bên ngoài vào ao nuôi.
  • Ao phải giữ được nước trong suốt thời gian nuôi. Mức nước trong ao từ 1,2 – 1,5m.
  • Đáy ao có độ dốc nghiêng về phía cống. Ao có cống cấp và thoát nước riêng.
  • Ao nuôi thâm canh cần phải thiết kế quạt nước và bố trí phù hợp.
  1. Chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi tôm được tiến hành chuẩn bị cải tạo theo yêu cầu kỹ thuật như sau:

  • Dọn sạch các loại cây cỏ xung quanh ao.
  • Tiến hành tát cạn nước sên vét lớp bùn đáy ao, lắp hang cua, lổ mọi.
  • Diệt tạp bằng cách bón vôi bột ở xung quanh bờ và đáy ao với liều lượng 10 – 15 kg/100 m2. Đối với ao mới đào phải rửa phèn nhiều lần trước khi bón vôi.
  • Phơi khô đáy ao từ 3 – 5 ngày.
  • Tiến hành lấy nước vào hệ thống nuôi thông qua lưới lọc nhằm hạn chế địch hại và trứng các loài cá tạp vào ao nuôi, khi mức nước trong ao đạt 1,2m, 2 – 3 ngày sau tiến hành thả giống.
  • Kiểm tra, bảo trì hệ thống quạt nước và hệ thống cung cấp oxy. Lấy nước đã xử lý từ ao lắng vào ao nuôi (nên qua túi lọc), chiều cao nước: 0,8 – 1,2m.

 Gây màu nước

Trước khi thả tôm giống 7 ngày, sử dụng phân DAP và bột dinh dưỡng (đậu nành…) hoà với nước và bón ao hàng ngày đến khi đạt độ trong 0,3 – 0,4m tạo nguồn thức ăn tự nhiên trong ao nuôi trong giai đoạn đầu.

Thả tôm giống

  • Sau giai chuẩn bị, khi các chỉ tiêu pH, độ mặn, độ trong, màu nước… đạt yêu cầu, có thể thả tôm giống. Post thả nên chọn loại Pl15 – Pl20, cần thuần hoá tôm giống để thích nghi với nuớc trong ao trong vòng 1 – 3 giờ . Tôm giống mới vận chuyển về nên thả túi xuống ao chừng 15 – 30 phút để nhiệt độ giữa nước trong túi tôm và nhiệt độ nước trong ao cân bằng. Sau đó nên đổ các túi tôm vào thau, tránh để tôm dính lại trong túi, múc nước ao pha vào thau dần dần, mỗi lần 1 ít. Vừa pha vừa quan sát tôm đã thích nghi được thì thả vào ao nuôi. Tôm chưa thích nghi khi thả ra thường bơi nổi trên mặt nước, vẻ yếu ớt.
  • Đứng ở đầu hướng gió, thả tôm giống ra từ từ, tránh làm đục nước ao. Sau khi thả xong quan sát khả năng phân tán của tôm trong ao nuôi, nếu tôm tụ lại từng đám thì dùng tay hoặc thau khua nước nhè nhẹ để phân tán tôm đều trong ao.
  • Sau khi thả tôm xong, cần theo dõi hàng ngày để tính tỉ lệ sống, xác định lượng tôm có trong ao để điều chỉnh thức ăn khi nuôi.
  • Nên thả tôm lúc thời tiết mát mẻ, tốt nhất là thời điểm từ 5 – 7 giờ sáng hoặc 4 – 6 giờ chiều. Không nên thả tôm lúc trời sắp mưa hoặc đang mưa to.
  • Mật độ thả tuỳ phương thức nuôi: quảng canh cải tiến (dưới 5 con/m2), bán thâm canh (10 – 20 con/ m2), thâm canh (trên 25 con/m2) ngoài ra còn thùy thuôc vào kích cỡ tôm thả nuôi, mùa vụ sản xuất.

Chăm sóc ao  nuôi

  1. Cho ăn

Nhà cung cấp thức ăn phải cung cấp cho bạn bảng hướng dẫn cho ăn, trong đó gồm:

  • Số lần cho ăn trong ngày
  • Tỉ lệ thức ăn theo các bữa trong ngày
  • Lượng thức ăn tỉ lệ theo tuổi và trọng lượng của tôm. Tỉ lệ thức ăn cho vào vó (sàng ăn).
  • Thời gian kiểm tra vó sau khi cho ăn.
  • Có thể sử dụng thêm các thức ăn tăng cường sinh trưởng cho tôm phối trộn chung với thức ăn.
  • Lưu ý cho tôm ăn tránh các khu vực dơ trong ao, khi tôm lột vỏ nhiều nên giảm lượng thức ăn, khi tôm yếu /bệnh hoặc nước trong ao bẩn/đục cũng nên giảm bớt lượng thức ăn.
  1. Kiểm tra tôm

Thường xuyên quan sát tôm, nhất là vào ban đêm, theo dõi để phát hiện những bất thường.

  • Quan sát màu sắc.
  • Kiểm tra các bộ phụ: chân, râu,
  • Kiểm tra mang.
  • Kiểm tra thức ăn trong hệ tiêu hoá
  • Kiểm tra cường độ bắt mồi và các hành vi khác của tôm.
  • Xét nghiệm vi khuẩn, PCR định kì. Chài tôm để kiểm tra trọng lượng trung bình của tôm, theo dõi sự tăng trọng của tôm và tính toán lượng thức ăn phù hợp. Nên chài tôm vào lúc trời mát sáng sớm hoặc chiều mát (4 – 6 giờ)
  1. Kiểm tra nước
  • Kiểm tra pH: 2 lần/ngày (sáng, chiều).
  • Kiểm tra độ trong của nước, Đo hàm lượng oxy hoà tan, Đo độ mặn, Đo độ kiềm: hàng ngày.
  • Đo Sulfat, đo Amonia, nitrat, nitrit, vi khuẩn, tảo: hàng tuần. Thay nước (một phần) hoặc xử lý (vi sinh, hoá chất) khi các chỉ tiêu đo không đạt yêu cầu (biến động pH lớn trong ngày, độ trong giảm quá nhiều …). Sử dụng thêm các sản phẩm sinh học để làm sạch nước và đáy ao trong suốt quá trình nuôi.
  1. Kiểm tra ao
  • Kiểm tra bờ, cống, mương, lưới ngăn cua… hàng ngày
  • Vệ sinh sàng ăn (vó), vớt tảo (láp láp), bọt…
  1. Quạt nước và sục khí

Thời lượng quạt nước và cấp oxy tăng theo tuổi của tôm.

  • Từ 1 – 5 tuần đầu: quạt 1 giờ/ngày.
  • Từ 5 – 8 tuần tuổi: quạt từ 2 – 4 giờ/ngày.
  • Từ 9 – 12 tuần tuổi: quạt từ 6 – 8 giờ/ngày
  • Từ 13 – 15 tuần tuổi: quạt từ 9 – 10giờ/ngày.
  • Từ tuần 15 đến thu hoạch: quạt 11 – 12 giờ/ngày.

Sục khí chạy máy sục khí thường xuyên vào ban đêm, vào những ngày có mưa hay ít nắng, thời gian chạy sục khí cũng tăng theo tuổi tôm:

  • Tháng thứ 1: 4 – 8 giờ/ngày.
  • Tháng thứ 2: 8 – 12 giờ/ngày.
  • Tháng thứ 3: 12 – 18 giờ/ngày.
  • Tháng thứ 4: 18 – 24 giờ/ngày.

Thu hoạnh

Tùy theo thị trường, và môi trường ao nuôi, tình hình sức khoẻ của tôm… mà quyết định thu hoạch. Trọng lượng tôm lí tưởng khi thu hoạch là ≥ 25g/con. Thu tôm bằng phương pháp xả cống hoặc kéo cào (xung điện).

Theo Báo Khuyến Nông (21/05/2024)

mo-hinh-nuoi-tom-the-chan-trang

Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng

MÔ HÌNH NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG

Tôm thẻ là loài thủy sản có nguồn dinh dưỡng cao và là món ăn phổ biến hằng ngày của người Việt. Không những thế, tôm thẻ còn nằm trong danh sách các mặt hàng thủy sản xuất khẩu lớn nhất nước ta.

Hình thức nuôi

Tôm chân trắng hay tôm P.vannamei là loại tôm có cường độ bắt mồi khoẻ, lớn nhanh thích hợp với các hình thức nuôi thâm canh như mô hình ít thay nước, mô hình tuần hoàn khép kín. Diện tích ao nuôi từ 0,5 – 1ha, độ sâu của nước 1,5 – 2m, mật độ từ 25 – 60 con/m2 như tôm sú nhưng thời gian nuôi chỉ cần 80 ngày tôm đạt cỡ 50 con/kg, trong khi đó tôm sú phải cần 110 – 120 ngày.

Chọn vùng nuôi

Ðịa hình phù hợp cho việc xây dựng ao nuôi công nghiệp là vùng cao triều mới thuận lợi cho việc cấp nước, thoát nước và phơi khô đáy ao khi cải tạo. Tôm P.vannamei không thích sống ở ao đáy cát hoặc đáy bùn nên đất xây dựng ao phải là đất thịt hoặc đất pha cát, ít mùn hữu cơ, có kết cấu chặt, giữ được nước, pH của đất phải từ 5 trở lên.

Nguồn nước cung cấp chủ động, không bị ô nhiễm công nghiệp, nông nghiệp hoặc sinh hoạt pH của nước từ 8,0 đến 8,3. Ðộ mặn từ 10 – 25 .

Về kinh tế xã hội : Nên chọn địa điểm vùng nuôi thuận lợi về giao thông, gần nguồn điện, gần nơi cung cấp các dịch vụ cho nghề nuôi tôm và an ninh trật tự tốt.

Thời vụ nuôi

Tôm P.vannamei là loại tôm rộng độ mặn, rộng nhiệt, nhưng phạm vi thích hợp để tôm sinh trưởng nhanh có giới hạn. ở các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ thời gian tháng 2 hằng năm nhiệt độ nước còn dưới 18 độ C. Mùa mưa bão thường xảy ra trong tháng 8 và tháng 9. Do vậy, vụ nuôi tôm chỉ bắt đầu được từ cuối tháng 3, đầu tháng 4 đến hết tháng 7 và vụ II từ tháng 10 đến tháng 12. ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ vụ nuôi từ tháng 1 tháng 2 đến hết tháng 8, mỗi vụ từ 3 đến 4 tháng, mùa mưa từ tháng 9 – 11 hằng năm.

Xây dựng công trình nuôi

  1. Ao nuôi

Công trình nuôi tôm P.vannamei có kết cấu tương tự như công trình nuôi tôm sú. Mô hình nuôi phổ biến có năng suất cao là mô hình ít thay nước. Diện tích từ 0,5 đến 1 ha. Hình dạng của ao là hình vuông, hình tròn hoặc hình chữ nhật, chiều dài/chiền rộng 2, thuận tiện cho việc tạo dòng chảy trong ao khi đặt máy quạt nước dồn chất thải vào giữa ao để thu gom và tẩy dọn ao. Ðáy ao bằng phẳng, có độ dốc khoảng 15oC nghiêng về phía cống thoát.

  1. Ao chứa – lắng

Khu vực nuôi phải có ao chứa – lắng để trữ nước và xử lý nước trước khi cấp cho các ao nuôi. Diện tích ao chứa – lắng thường bằng 25 – 30% diện tích khu nuôi, đáy ao chứa – lắng nên cao bằng mặt nước cao nhất của ao nuôi để có thể tự cấp nước cho ao nuôi bằng hình thức tháo cống mà không cần phải bơm. Nước lấy vào ao chứa – lắng là nước biển qua cống hoặc bơm tuỳ theo mức thuỷ triều của vùng nuôi. Nếu độ mặn quá cao nước biển phải pha đấu với nước ngọt để hạ độ mặn theo yêu cầu của kỹ thuật nuôi.

 

 

  1. Ao xử lý thải

Khu vực nuôi còn cần phải có ao xử lý nước thải, diện tích bằng 5 – 10% diện tích khu vực nuôi để xử lý nước ao nuôi sau khi thu hoạch thành nước sạch không còn mầm bệnh mới được thải ra biển.

  1. Mương cấp, mương tiêu

Mương cấp và mương tiêu để cấp cho các ao nuôi và dẫn nước của ao nuôi ra ao xử lý thải. Mương cấp cao bằng mặt nước cao của ao nuôi và mương tiêu thấp hơn đáy ao 20 – 30 cmm để thoát hết được nước trong ao khi cần tháo cạn. Hệ thống mương cấp mương tiêu khoảng 10% diện tích khu vực nuôi.

  1. Hệ thống bờ ao, đê bao

Ao nuôi tôm thông thường phải có độ sâu của nước 1,5m và bờ ao tối thiểu cao hơn mặt nước 0,5m. Ðộ dốc của bờ phụ thuộc vào chất đất khu vực xây dựng ao nuôi. Ðất cát dễ xói lở bờ ao nên có độ dốc là 1/1,5, đất sét ít xói lở hơn, độ dốc của bờ ao có thể là 1/1.

Cần lưu ý là bờ ao không cao, nước nông, sẽ tạo điều kiện cho rong, tảo dưới đáy ao phát triển làm suy giảm chất lượng nước ao nuôi.

Một số bờ ao trong khu vực nuôi nên đắp rộng hơn các bờ khác để làm đường vận chuyển nguyên vật liệu cho khu vực nuôi.

Ðê bao quanh khu vực nuôi thường là bờ của kênh mương cấp hoặc tiêu nước. Hệ số mái tương tự ao nuôi nhưng bề mặt lớn hơn và độ cao của đê phải cao hơn lúc thuỷ triều cao nhất hoặc nước lũ trong mùa mưa lớn nhất 0,5 – 1m.

  1. Cống cấp và cống tháo nước

Mỗi ao phải có một cống cấp và một cống tháo nước riêng biệt. Vật liệu xây dựng cống là xi măng, khẩu độ cống phụ thuộc vào kích thước ao nuôi, thông thường ao rộng 0,5 – 1 ha, công có khẩu độ 0,5 – 1m bảo đảm trong vòng 4 – 6 tiếng có thể cấp đủ hoặc khi tháo có thể tháo hết nước trong ao.

Cống tháo đặt thấp hơn chỗ thấp nhất của đáy ao 0,2 – 0,3 m để tháo toàn bộ nước trong ao khi bắt tôm.

  1. Bãi thải

Tuỳ quy mô khu vực nuôi và hình thức nuôi tôm để thiết kế bãi thải nhằm thu gom rác thải và mùn bã hữu cơ ở đáy ao xử lý thành phân bón hoặc rác thải di chuyển đi nơi khác để chống ô nhiễm cho khu vực.

Cải tạo ao nuôi

  1. Cải tạo đáy ao

Ðối với ao mới xây dựng xong cho nước vào ngâm 2 – 3 ngày rồi lại xả hết nước để tháo rửa. Tháo rửa như vậy 2 đến 3 lần sau đấy dùng vôi bột để khử chua cả bờ và đáy ao. Lượng vôi tuỳ theo pH của đất đáy ao :

  • pH 6 – 7 dùng 300 – 400 kg/ha;
  • pH 4,5 – 6 dùng 500 – 1.000 kg/ha.

Rắc vôi xong phơi ao 7 – 10 ngày lấy nước qua lưới lọc sinh vật có mắt lưới 9 – 10 lỗ/cm2. Gây mầu nước để chuẩn bị thả giống.

Ðối với ao cũ sau khi thu hoạch xả hết nước ao cũ. Nếu tháo kiệt được thì nạo vét hết lớp bùn nhão rồi cầy xới đáy ao lên trộn với vôi bột mỗi ha 500 – 1.000 kg phơi khô 10 – 15 ngày, lấy nước vào qua lưới lọc để gây mầu nước như trên. Nếu ao không tháo cạn được thì dùng bơm, bơm sục đáy ao để tẩy rửa chất thải sau đó bón vôi diệt tạp. Vôi thường dùng là vôi nung CaO với liều lượng từ 1.200 – 1.500 kg/ha cho ao với mực nước 10 cm, với ao có mực nước sâu 0,5 – 1m lượng vôi nhiều hơn gấp đôi. Lượng vôi nhiều hay ít phụ thuộc vào chỉ số pH của nước ao. Bón vôi xong yêu cầu chỉ số pH của nước ao phải đạt 8 – 8,3 mới được thả tôm giống để nuôi. Hoặc dùng phương pháp cho vôi vào lồng tre buộc sau thuyền gỗ di chuyển trong ao. Ao có mức nước sâu 0,5 – 1m mỗi ha dùng 1.500 – 2.000 kg vôi nung có thể diệt hết côn trùng, địch hại cho tôm trong ao. Thời gian còn tác dụng là 7 – 8 ngày sau khi diệt tạp.

Những ao đầm sau đây không được dùng vôi để sát trùng:

  • Ao có đáy hoặc nước ao hàm lượng Ca++ quá cao; bón vôi làm cho Ca++ kết hợp với PO=4 lắng xuống gây nên hiện tượng thiếu lân trong ao; thực vật phù du và rong tảo không phát triển được, không gây được màu nước cho ao;
  • Ao có hàm lượng hữu cơ quá thấp, bón vôi làm cho quá trình phân giải hữu cơ tăng lên làm cho nước quá gầy không có lợi cho sinh vật sống trong ao; nếu dùng vôi để sát trùng sau đó bón phân hữu cơ hoặc phân lân ao mới dùng lại được;
  • Bón vôi quá liều lượng làm cho nhiệt độ nước lên cao, pH cao, NH3 cao, độc tính lớn dẫn đến bệnh tôm phát triển;
  • Dùng vôi sát trùng xong không được bón phân urê; phân urê làm tăng NH4-N trong nước, phá hoại tổ chức mang của tôm, cản trở sự vận chuyển màu làm tôm bị chết.

* Một số lưu ý quan tâm:

  • Quá trình tháo nước ao cũ phải kết hợp sục bùn làm sạch ao; vét bớt bùn ô nhiễm ở đáy ao;
  • Quá trình tu bổ bờ ao phải bắt diệt hết ếch, rắn, các loại động vật làm hang sống ở bờ ao, lấp các hang hố quanh bờ ao;
  • Sau khi rắc vôi xong, dùng cào trộn đều khắp đáy ao để diệt hết cá tạp và sinh vật có hại; cày đảo đáy ao cho ôxy hoá lớp bùn đáy; phơi khô 10 – 15 ngày mới cho nước vào ao; khi cho nước cần trộn thêm một ít chế phẩm sinh học và chế phẩm ôxy hoá để khử chất độc và phân giải các hợp chất hữu cơ trong ao;
  • Nếu đáy ao quá chua, hàm lượng sắt quá cao hoặc khả năng thẩm lậu quá lớn không giữ được nước nên dùng lớp vải nilông nhân tạo lót đáy ao; tuỳ theo đối tượng nuôi có thể cho thêm một lớp cát dày 2 – 3 cm trên lớp vải lót để tôm vùi mình theo tập tính sống của tôm.
  1. Diệt tạp

Nước lấy vào ao qua lưới lọc để 2 – 3 ngày cho các loại trứng theo nước vào ao nở hết rồi tiến hành diệt bằng saponine với nồng độ 15 – 20 ppm (15-20 g/m3 nước ao).

Saponine là bột hạt chè ta uống hàng ngày. Nơi có điều kiện dùng hạt chè nghiền thành bột ngâm vào nước ngọt 26 giờ, nếu cần gấp thì ngâm vào nước nóng cũng được. Ngâm xong đem lọc lấy dung dịch lọc được phun xuống ao. Ao có mức nước sâu 1m, mỗi ha dùng 150 – 180 kg hạt chè xử lý như trên sau 40 phút có thể diệt được hầu hết cá dữ. Nhưng dùng nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của tôm, thậm chí làm tôm sinh bệnh.

Dùng saponine diệt tạp xong phải thay nước mới được thả tôm giống.

Hạt chè được chế biến thành thương phẩm có tên là sapotech để cung cấp cho các nơi không tự túc được hạt chè, sapotech được đóng trong bao nilong bọc giấy, khi dùng đem ra pha nước tạt xuống ao, lượng dùng là 4,5 – 5 g/m2, cho ao có mức nước sâu khoảng 10 cm. Sau 15 – 20 giờ thay nước hoặc cho thêm nước vào ao mới được thả tôm giống.

  1. Khử trùng nguồn nước

Trong nước ao thường có nhiều loại virus, vi khuẩn, nấm, tảo và nguyên sinh động vật sinh ra các loại bệnh cho tôm như bệnh đầu vàng, bệnh đốm trắng, bệnh MBV, bệnh phát sáng, bệnh đóng rong, bệnh đỏ mang, bệnh hoại tử phụ bộ, … Vì vậy, trước khi thả tôm giống cần phải khử trùng nguồn nước. Hoá chất dùng để khử trùng nguồn nước phổ biến là chlorine. Chlorine có hàm lượng Cl 30 – 38%, để lâu sẽ bốc hơi mất tác dụng nên thường phải xác định lại nồng độ cho chính xác trước khi dùng.

Nồng độ 2 ppm có tác dụng diệt khuẩn rất tốt. Ao có mức nước sâu 1m, mỗi ha dùng 195 kg hoà loãng với nước ao phun đều khắp ao. Nếu phun vào những ngày trời dâm mát, tác dụng diệt khuẩn có thể kéo dài 4 đến 5 ngày. Trước khi thả tôm giống phải mở máy quạt nước cho bay hết khí chlo còn lại trong nước. Chú ý, không dùng chlorine ngay sau khi sử dụng vôi sống vì gặp nước chlorine sản sinh ra HCl, vôi sống sinh ra OH hai thứ trung hoà lẫn nhau làm mất tác dụng diệt khuẩn của từng loại.

Bón phân gây màu nước

  1. Màu nước

Màu nước là màu của nước được thể hiện dưới ánh sáng mặt trời. Các yếu tố hợp thành màu của nước là các ion kim loại, mùn bã hữu cơ tan trong nước, bùn đáy, chất huyền phù, chất keo, đặc biệt là các loại sinh vật sống trong nước nhất là các tảo đơn bào.

Màu nước đậm hay nhạt là thể hiện các chất hữu cơ nói trên và mật độ các loại tảo có trong nước nhiều hay ít.

Lượng tảo đơn bào có trong nước nhiều hay ít, thành phần giống loài gì phụ thuộc vào nồng độ và tỉ lệ các loại phân bón. Ví dụ tỉ lệ N/P = 3/1 – 7/1 thì đa số các loài tảo có trong ao là tảo lục làm cho nước có màu xanh lục.

Tỷ lệ N/P = 10/1 thì đa số các loại tảo trong nước là tảo khuê, làm cho nước có màu vàng lá chuối non.

Màu nước có ý nghĩa rất lớn đối với ao nuôi tôm để :

  • Làm tăng lượng ôxy hoà tan trong nước;
  • Ổn định chất nước và làm giảm các chất độc trong nước;
  • Làm thức ăn bổ sung cho tôm;
  • Giảm độ trong của nước giúp cho tôm nuôi dễ tránh địch hại;
  • Nâng nhiệt và ổn định nhiệt trong ao;
  • Hạn chế tảo sợi và tảo đáy phát triển;
  • Hạn chế các loại vi khuẩn gây bệnh phát triển; đảm bảo cân bằng sinh thái vùng nước.
  1. Ðặc trưng của các loại màu nước

      2.1 Màu mận chín

Chủ yếu là tảo khuê, rất có lợi đối với tôm. Thành phần chủ yếu của các loại tảo là closteriopsis longissima (L); schroederia, spirotaenia, surrirella biseriata (B), tiểu cầu tảo …

Các loài tảo này là thức ăn của ấu trùng tôm ở giai đoạn hậu ấu trùng.

2.2 Màu xanh nhạt hoặc xanh đậm

Thường được gọi là xanh vỏ đậu. Thành phần chủ yếu là tảo lục. Tảo lục hấp thụ rất nhiều đạm hữu cơ nên dễ làm sạch nước có lợi cho tôm.

       2.3 Màu xanh đậm
Chủ yếu là tảo lam, tảo lục, thường thấy ở ao cũ. Tỷ lệ sống của tôm ở ao này không cao lắm.

      2.4 Màu xám hoặc màu nước tương
Chủ yếu là tảo chromulina, englenaacus đây là những ao do quản lý không tốt để dư thừa thức ăn quá nhiều làm nước bị ô nhiêmx nên tôm dễ chết.

      2.5 Màu vàng
Là những ao có vật hữu cơ tích luỹ quá nhiều, qua quá trình phân giải của vi sinh làm cho pH giảm thấp, không thích hợp cho việc nuôi tôm. Các loại tảo chủ yếu ở đây là tảo chromulina hoặc schroederia.

      2.6 Màu trắng đục hoặc hơi đục
Chủ yếu là các loại động vật như copepoda và các hạt hữu cơ nhỏ li ti. Tôm nuôi ở đây rất dễ bị bệnh và tỷ lệ sống rất thấp.

      2.7 Màu trong vắt
Trong nước có nhiều kim loại nặng và vật gây bệnh cho tôm, pH thấp, ít sinh vật phù du, không nuôi được tôm. Việc cải tạo ao nuôi cũng như bón phân gây màu nước là tạo điều kiện sinh thái thích hợp với đời sống của tôm để tôm sống lớn nhanh theo kế hoạch sản xuất của người nuôi. Những chỉ tiêu đó được thể hiện qua màu sắc của nước như đã nói trên và các chỉ tiêu lý hoá của nước.

  1. Các chỉ tiêu lý hoá nước ao nuôi tôm

Một số chỉ tiêu lý hoá được coi là tốt như sau:

  • Ôxy hoà tan trên 4 mg/l;
  • pH 8,0 – 8,5; trong ngày không được thay đổi quá 0,4 – 0,5 độ;
  • Nhiệt độ không được quá cao hay quá thấp lâu ngày; thích hợp nhất là 20 – 30oC, quá cao không quá 33,5 độ C, quá thấp không thấp quá 18 độ C;
  • Ðộ kiềm trong khoảng 100 đến 250 mg/l;
  • NH4, NO3 không được tăng quá đột ngột để sinh bệnh cho tôm;
  • Ðộ trong 35 5 cm; màu nước là màu xanh lục hoặc màu mận chín;
  • Ðộ mặn 5 – 32 thích hợp nhất là 10 – 25 ;
  • Nếu pha với nước ngọt độ mặn có thể giảm đến 1 – 2 (gần như nước ngọt) tôm vẫn có thể sống được nhưng phải giảm từ từ.

Thả giống

  1. Chọn tôm giống

Sau khi ao xây dựng xong hoặc cải tạo đạt tiêu chuẩn; lấy nước, bón phân gây màu xong phải thả tôm giống kịp thời. Nếu để lâu sinh vật trong nước lại phát triển ảnh hưởng đến các chỉ tiêu lý – hoá – sinh của môi trường, muốn thả giống phải cải tạo, xử lý lại môi trường gây tốn kém và ảnh hưởng tới tiến độ nuôi.

Trước khi thả giống phải kiểm tra chất lượng tôm giống. Tôm giống đạt tiêu chuẩn là: Tôm không mang các mầm bệnh mà hiện nay khoa học đã phát hiện thấy, có phổ biến ở các loại tôm như bệnh đốm trắng (WSSV), bệnh đỏ đuôi (TSV) bệnh MBV, bệnh phát sáng, bệnh đóng rong, bệnh hoại tử phụ bộ, … Loại tôm này được mệnh danh là tôm sạch bệnh. Hiện nay chỉ có loài P.vannamei do Viện OI của Hoa Kỳ chọn giống tạo ra mới là tôm sạch bệnh. Các loài tôm khác kể cả loài vannamei, nhưng sản xuất giống ở nơi khác không bảo đảm công nghệ của OI không thể gọi định là tôm sạch bệnh SPF.

Tôm phải khoẻ. Dùng 50 – 100 tôm giống có chiều dài 1 – 1,2 cm để kiểm tra hình dạng. Tôm khoẻ là tôm không dị hình, không có thương tích, các phụ bộ đầy đủ, các cơ đầy đặn, màu trong, ruột, dạ dày no, thích bơi ngược dòng, khi bơi hoạt bát, cơ thể ngay thẳng. Bên ngoài không có ký sinh trùng và vật khác. Ðàn tôm bố mẹ phải là tôm SPF nhập từ OI Hoa Kỳ. Công nghệ sản xuất giống phải áp dụng công nghệ OI.

  1. Ương tôm giống

Ấu trùng tôm P.vannamei rất bé, để đảm bảo tỷ lệ sống cao và giảm bớt việc chiếm dụng diện tích ao nuôi thường người ta tiến hành giai đoạn ương tôm giống từ cỡ P15 có chiều dài từ 1 cm lên 3cm mới đưa vào ao nuôi.

Mật độ ương là 100 – 200 ấu trùng/m2 hoặc cao hơn tuỳ theo ao có hay không có điều kiện sục khí.

Ao ương thường là 100 – 200 ấu trùng/m2 hoặc cao hơn tuỳ theo ao có hay không có điều kiện sục khí.

Ao ương thường có diện tích 1000 – 5000 m2. Trước khi ương ao phải dọn đáy thật kỹ, sát trùng đáy và nước ao. Bón phân gây màu. Nước sâu khoảng 0,8 – 1,0m. Khi độ trong trên dưới 30 cm thì thả tôm vào ương. Ðộ mặn, nhiệt độ, của ao ương phải giống như độ mặn, nhiệt độ ao ương tôm bột P15.

Ao nương luôn có hàm lượng ôxy hoà tan không dưới 5 mg/l. Màu nước là màu xanh hoặc xanh lá chuối non (xanh vàng).

Thức ăn cho tôm giai đoạn này là thịt nhuyễn thể hoặc thịt cá tươi nghiền nhỏ trộn với thức ăn nhâ tạo. Tôm đạt cỡ 3 cm thì thu hoạch chuyển sang ao nuôi tôm thịt.

  1. Thả giống

Số lượng giống cho mỗi ao phải thả đủ một lần, tốt nhất là tôm cùng cho đẻ một đợt của những con tôm mới cho đẻ lần đầu hoặc lần thứ hai. Không dùng tôm giống của những con tôm đã cho đẻ từ lần thứ ba trở lên, chỉ thả tôm vào ao khi ao nuôi có đủ các điều kiện sau đây:

  • Ao đã gây màu nước tốt đủ thức ăn tự nhiên cho tôm;
  • Chất lượng nước ao nuôi phải đảm bảo tiêu chuẩn TCVN 5943 – 1995

Thời gian thả giống là sáng sớm hoặc chiều mát lúc thời tiết tốt, không thả giống vào giữa trưa hoặc lúc trời mưa to gió lớn, khí hậu thay đổi đột ngột ảnh hưởng tới tỷ lệ sống của tôm.

Theo Báo Khuyến Nông (21/05/2024)

ky-thuat-nuoi-ca-chach-lau-o-cac-mo-hinh-khac-nhau-01

Kỹ thuật nuôi cá chạch lấu

KỸ THUẬT NUÔI CÁ CHẠCH LẤU

Xây bể xi măng nuôi cá Chạch

Cá Chạch Lấu, thích hợp môi trường nhiệt độ từ 25 -27 độ C. Do vậy bể nuôi xi măng cần thiết kế mái che nắng che mưa, có thể thả thêm bèo nếu bể rộng làm nơi cư ngụ cho cá Chạch.

Bể xi măng cần được xử lý trước khi thả cá bằng muối hoặc thuốc tím, rửa thật sạch. Có thể ngâm phèn trong vòng 1 tuần để khử các vụn xi măng, mùi xi măng còn động lại. Rửa sạch với nước, ngâm tiếp nước sạch khoảng ngày vài trước khi xả nước chính thức vào nuôi cá.

Đối với cá Chạch cần xử lý nước thường xuyên nên thiết kế ống cấp nước, xã nước ở dưới đấy bể một cách thuận tiện nhất. Nước ao nuôi phải gây màu bằng phân xanh từ 3 – 4 ngày, đến khi có màu nõn chuối thì đạt yêu cầu. Như vậy, khi thả cá xuống từ 4 – 7 ngày không cần cho ăn.

Chọn cá Chạch giống

Khâu chọn giống sẽ quyết định đến năng suất thu hoạch của từng hộ kinh doanh. Đối với cá Chạch tốt nhất bà con cần quan tâm nên chọn giống to khỏe đạt chất lượng không dị hình, dị tật, bơi lội nhanh nhẹn, kích cỡ đồng đều, không mang mầm bệnh. Thông thường từ 2 -3g/con là phù hợp.

Mật độ thả từ 50 – 100 con/m2. Không thả quá dày sẽ khiến môi trường sống của cá chạch bị chật trội, chậm lớn.

Thức ăn cho cá Chạch

Cá Chạch là loại háu ăn, ăn tạp nhưng chúng không ăn nhiều. Do vậy, bà con cần cho ăn đúng định lượng của nó. Cụ thể dựa theo cách tính chiều dài của cá Chạch:

  • Cỡ dưới 5cm: thức ăn là ăn luân trùng, râu ngành, chân chèo và các động bật phù du khác.
  • Cỡ 5 – 8cm: ngoài động vật phù du, Chạch còn ăn giun  nhỏ
  • Cỡ 8 – 9cm: Chạch còn ăn tảo khuê, thân lá cây cỏ non và hại ngũ cốc
  • Cỡ trên 9cm: Chạch chuyễn sang ăn thực vật là chính.

Ngoài thức ăn tự nhiên, Chạch muốn lớn nhanh, đầy đủ chất dinh dưỡng, bà con cần bổ sung thức ăn chế biến cho chúng như khô đậu, cám gạo, nhộng tầm, thức ăn công nghiệp, cá tạp, ốc xoay.

Lượng thức ăn của Chạch bằng 5 – 8% trọng lượng cơ thể.

Mỗi ngày chia làm 3 – 4 lần cho ăn tùy vào cách chia thức ăn. Hợp nhất là ăn vào sáng va chiều tối khi thời tiết mát mẻ.

Để tăng sức đề kháng cho cá Chạch thì định kỳ 2 lần/tháng trộm thêm Vitamin C vào thức ăn tổng hợp cho cá.

Phòng và trị bệnh

Cá Chạch là loài ít bệnh nhưng khi gặp môi trường ô nhiễm thì cá vẫn mắc một số bệnh như nấm, đốm đỏ lở loét, bệnh đường ruột.  Cách phòng bệnh đơn giản nhất là chủ động bổ sung Vitamin C, men tiêu hóa vào thức ăn cho cá Chạch, định kỳ cho 2 lần/tháng mỗi lần 3 – 5 ngày liên tục. Ngoài ra phải thay nước liên tục cho cá, tùy vào số lượng cá nuôi nhiều hay ít mà thay nước theo định kỳ ngắn hay dài.

Khi cá bị bệnh thì xữ lý như sau:

  • Chạch bị nấm: cho Chạch tắ bằng các loại quá chất như nước muối bằng 3% hoặc KMnO4 liều lượng 20 gr/m3 nước, thời gian từ 10 – 15 phút.
  • Sử dụng kháng sinh: Doxycline 0.2 – 0.3 gr/kg thức ăn, Oxytetracline 2 – 4 gr/kg thức ăn, cho ăn 5 – 7 ngày liên tục.

Thu hoạch cá Chạch

Thời gian thu hoạch cá sau khi nuôi từ 9 – 12 tháng là cá đạt đến kích cỡ 100 – 150 con/kg và có thể thu tỉa dần. Dùng lưới có mắt lưới để thu hoạch cá Chạch to, lọc lại cá nhỏ. Hoặc tháo cạn nước để thu bắt cá. Trước khi đánh bắt 1 ngày thì không cho cá Chạch ăn, không dùng kháng sinh trước khi xuất bán 15 ngày.

Khi đánh bắt cá cần chú ý tránh cá Chạch bị xây xác vì làn da trơn của chúng rất dễ bị tổn thương. Cá mất nhớt, bị xây xát giá trị thương phẩm sẽ giảm xuống. Nuôi cá Chạch không tốn nhiều chi phí nên bà con hoàn toàn có thể mở rộng mô hình nuôi cá Chạch lấu ngon thịt.

Theo Báo Khuyến Nông (21/05/2024)

mo-hinh-nuoi-ca-loc-thuong-pham

Mô hình nuôi cá lóc thương phẩm

MÔ HÌNH NUÔI CÁ LÓC THƯƠNG PHẨM

Mô hình nuôi trong giai đoạn đặt ở ao đất

  1. Mùa vụ

Mùa vụ nuôi phụ thuộc vào việc sản xuất con giống. Nguồn cá giống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, thông thường nguồn cá giống xuất hiện tập trung vào tháng 7 – 8. Do vậy, mùa vụ nuôi cũng tập trung vào những tháng này.

  1. Kích cỡ giống và mật độ nuôi

Cần chọn lựa giống có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, không bị sây sát, không bị mất nhớt. Cá giống cần đạt kích cỡ 20 – 30g/con. Mật độ thả 70 – 90 con/m2.

  1. Thức ăn cho cá

Cá lóc là loài ăn động vật, cá có thể sử dụng nhiều loại thức ăn như: cá, tép, ếch nhái….Trong quá trình nuôi có thể tập cho cá quen dần với thức ăn tự chế với nguồn nguyên liệu là cá tạp, tấm, cám, bắp….hoặc thức ăn công nghiệp. Khẩu phần ăn cho cá có thể định lượng theo bảng sau:

  1. Cho cá ăn

Trong giai đoạn đầu thả giống, do kích thước cá còn nhỏ, thức ăn cần được xay nhuyễn, khi cá lớn thức ăn không cần xay nhuyễn và được cung cấp cho cá trong giai hoặc ao nuôi qua sàn ăn.

  1. Chăm sóc và quản lý

Việc chăm sóc và quản lý được tiến hành thường xuyên như kiểm tra hệ thống dây- lưới, theo dõi hoạt động của cá, vệ sinh giai….

Mô hình nuôi trong ao đất

  1. Chuẩn bị ao

Diện tích ao nuôi trung bình từ 100 – 1.000 m2. Ao nuôi được cải tạo và vệ sinh trước khi nuôi. Dùng lưới hoặc đăng tre chắn xung quanh để phòng tránh cá nhảy ra ngoài. Mật độ thả cá 30 – 50 con/m2.

  1. Cho cá ăn và quản lý

Thức ăn dùng cho cá nuôi trong ao đất tương tự như thức ăn cho cá nuôi trong giai. Thức ăn được đặt trong sàn cho cá ăn.

Mô hình nuôi trên bể lót bạt

  1. Chuẩn bị bể

Tùy theo diện tích của mỗi hộ gia đình mà xây dựng bể có quy mô khác nhau:

  • Vị trí đặt bể nên bố trí gần sông để thuận tiện cho việc thay nước, nên xây dựng bể lót bạt để chi phí đầu tư thấp và thuận tiện cho việc thay đổi thiết kế sau này nhất là chuyển đổi đối tượng nuôi khác.
  • Bể thường được xây dựng theo hình chữ nhật, chiều cao bể khoảng 1,2m. Dùng tràm để làm các trụ, rào đăng tre xung quanh, trải bạt nhựa màu tối để tạo điều kiện sống gần giống như tự nhiên và sử dụng lưới cước rào trên mặt bể để tránh cá nhảy ra ngoài. Đáy bể nên thiết kế sao cho nghiêng về một phía để dễ dàng tháo nước. Đặt cống thoát nước sát đáy bể và đầu cống có lưới chắn để không cho cá ra ngoài.
  • Mực nước trung bình trong bể là từ 0,8 – 1m.
  • Cần có hệ thống máy bơm nước để cung cấp nước khi cần thay nước.
  1. Cho ăn và quản lý

Thức ăn dùng cho cá nuôi trong ao đất giống như thức ăn cho cá nuôi trong giai và ao đất. Thức ăn được đặt trong sàn ho cá ăn.

  1. Xử lý môi trường nước trong bể nuôi

Cá lóc nuôi trên bể môi trường nước rất dễ nhiễm bẩn cần được thay nước thường xuyên. Lúc cá còn nhỏ số lần thay nước sẽ ít hơn so với cá lớn. Định kỳ xử lý vôi cho nguồn nước trong bể nuôi từ 7 – 10 ngày/lần với 2 – 3kg vôi/100m3. Trong quá trình nuôi nếu có hiện tượng nhiễm nấm, ký sinh trùng nên dùng các hóa chất diệt ký sinh trùng như Fresh water (Cty Vemedim, Cần Thơ)….liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất để xử lý rất hiệu quả.

Mô hình nuôi ghép

  1. Nuôi ghép với cá rô phi

Dùng cá Rô phi làm thức ăn cho cá lóc. Mật độ thả 0,5 – 1 con/m2. Qua 4 tháng nuôi cá giống cỡ 80 – 100g/con đạt trung bình 350g/con. Tính trung bình cứ 4kg cá Rô phi con được 1 kg cá lóc thịt.

  1. Nuôi ghép với cá nuôi khác

Có thể nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, chép,…..Thức ăn và liều lượng cho ăn tuỳ thuộc vào mật độ nuôi cũng như tỉ lệ ghép với loài cá khác sao cho đảm bảo cá lóc tăng trưởng tốt và không ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá khác.

Phòng và trị bệnh cho cá

  • Cá ương giai đoạn dưới 25 ngày tuổi: Bệnh thường gặp là bệnh do ký sinh trùng Để phòng bệnh cần định kỳ sát trùng ao nuôi 15 ngày/lần. Sử dụng vôi bột với liều lượng 3 – 4 kg/100 m3, vôi được hòa tan, lóng trong và lấy nước tạt khắp ao hoặc sử dụng Fresh water (Cty Vemedim Cần Thơ).
  • Cá ương giai đoạn trên 25 ngày tuổi: Bệnh thường gặp là bệnh viêm ruột do giai đoạn này cá chuyển thức ăn. Rửa thức ăn bằng muối hột, trộn thuốc Sunfadimezin: 2g + Vitamine C: 1g/1kg thức ăn cho cá ăn liên tục 3 ngày mỗi tháng. Định kỳ tạt nước vôi khắp ao.
  • Cá giai đoạn nuôi thịt: Bệnh thường gặp là bệnh viêm ruột, ghẻ lở, rận cá. Sử dụng Sunfadimezin: 20g + Oxytetra 5g/100kg cá. Dùng liên tục trong 6 ngày. Định kỳ tạt nước vôi khắp ao.

Thu hoạch

Sau 5 – 6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng trung bình 0,8Kg – 1kg/con. Trước khi thu hoạch 1 – 2 ngày không nên cho cá ăn nhằm hạn chế cá chết trong quá trình vận chuyển. Khi thu hoạch có thể dùng vợt để hạn chế sây sát.

Tháo nước ra chỉ còn 40 – 50 cm, lấy lưới kéo đánh bắt dần. Sau đó tát cạn để thu hoạch toàn bộ.

Theo Báo Khuyến Nông (21/05/2024)

ky-thuat-nuoi-ca-dieu-dong-hieu-qua

Các bệnh thường gặp ở cá điêu hồng

CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CÁ ĐIÊU HỒNG

Bệnh do ký sinh trùng

Nguyên nhân: Các bệnh do ngoại ký sinh trùng có tác động mạnh đến cá con trong quá trình ương. Thực tế cho thấy nhiều cơ sở ương giống có tỷ lệ hao hụt từ 50 – 70% chủ yếu là do cá con bị bệnh đốm trắng (trùng quả dưa tấn công), bệnh do trùng mặt trời và tà quản trùng, bệnh do sán lá đơn chủ, bệnh do giáp xác ký sinh (Argulus và Ergasilus).

Cách phòng trị: Ao ương và nuôi cá phải có sục khí. Khi phát hiện cá bị bệnh cần bón: Formol nồng độ 25 – 30 ml/m3, trị thời gian dài và nồng độ từ 100 – 150 ml/m3 nếu trị trong 15 – 30 phút; CuSO4 (phèn xanh) nồng độ 2 – 5 g/m3 trị thời gian dài và từ 20 – 50 g/m3 trong thời gian 15 – 30 phút, cách này trị một lần; muối ăn để phòng trị bệnh cho cá, nồng độ 1% trị thời gian dài và 1 – 2% trong 10 – 15 phút.

Bệnh xuất huyết

Nguyên nhân: Bệnh do vi khuẩn Aemomas hydrophia hoặc Edwardsiella tarda gây ra. Cá có dấu hiệu toàn thân xuất huyết, hậu môn sưng lồi, bụng trương to, có dịch vàng hoặc hồng, đầu và mắt cá sưng và lồi ra. Bệnh thường xuất hiện với cá rô phi đỏ nuôi bè.

Cách phòng trị: Biện pháp đề phòng là tránh thả cá nuôi và hạn chế thay nước lúc giao mùa. Nên định kỳ bón và khử trùng nơi cho cá ăn. Cách trị là bón vôi và khử trùng nước, có thể trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cá, tỷ lệ tuỳ theo tình trạng bệnh.

Bệnh trắng mang, thối mang

Nguyên nhân: Do vi khuẩn Myxococcus piscicolas gây ra. Vi khuẩn này phát triển mạnh ở môi trường có pH = 6,5 – 7,5, nhiệt độ nước 25 – 35oC. Cá bệnh có dấu hiệu bơi tách đàn, bơi lờ đờ trên mặt nước, khả năng bắt mồi giảm đến ngừng ăn Các tơ mang cá bị thối nát, ăn mòn, rách nát, xuất huyết, thối rữa và có lớp bùn dính rất nhiều. Bề mặt xương nắp mang bị xuất huyết, ăn mòn và có hình dạng không bình thường

Cách phòng trị: 

Cần thực hiện tốt khâu chuẩn bị ao nuôi, vét sạch bùn đáy ao Trong quá trình nuôi phải quản lý tốt môi trường để hạn chế ô nhiễm hữu cơ thông qua việc quản lý lượng thức ăn Định kỳ thay nước ao để giữ môi trường trong sạch.

Thường xuyên vệ sinh thành lồng bè để đảm bảo lưu tốc dòng nước chảy cho phù hợp

Theo Báo Khuyến Nông (21/05/2024)

ky-thuat-nuoi-ca-dieu-dong-hieu-qua-cao

Kỹ thuật nuôi cá điêu hồng hiệu quả cao

KỸ THUẬT NUÔI CÁ ĐIÊU HỒNG HIỆU QUẢ CAO

Chuẩn bị ao nuôi

  • Ao tháo cạn nước, vét bớt bùn đáy, lấp hang hốc, dọn sạch cây cỏ, trang phẳng đáy
  • Dùng 10-15 kg vôi bột/100m2 để khử chua và diệt cá tạp, phơi nắng 2 – 3 ngày
  • Lấy nước vào ao qua lưới lọc rác
  • Gây màu nước bằng phân chuồng ủ hoai: 80-100 kg/100 m2 hoặc phân đạm, lân đến 5-6 ngày tạo lượng sinh vật phù du trong ao phát triển làm thức ăn cho cá, sau đó thả cá vào nuôi.

Thả giống

  • Phải chọn cá khoẻ mạnh, vây vẩy hoàn chỉnh, không bị xây xát, không bị bệnh, cá sáng con, cỡ đồng đều, nhanh nhẹn phản ứng tốt với các tác động xung quanh.
  • Mật độ thả: 3 con/m2
  • Thời vụ thả: cuối tháng 5-6

Thức ăn

  • Cá ăn các loại thức ăn tinh: bột ngô, khoai, sắn, gạo, cám
  • Các loại thức ăn xanh như rau muống, bèo trứng, cá, bèo tấm, rau thái nhỏ
  • Các loại động vật như tôm cá nhỏ, giun ốc đã xay nhỏ và các loại phế phẩm (bã bia, bã rượu, lòng trâu bò….)
  • Ngoài thức có điều kiện cho ăn thêm thức ăn công nghiệp.

Cách cho ăn

Thức ăn công nghiệp: Dùng loại thức ăn có độ đạm 25- 30%. Lượng thứ ăn: 4-5% trọng lượng cá. Ngày  lần (sáng, chiều)

Thức ăn tự chế biến: 

  • Tháng đầu: 30% cám gạo + 70% cá, xay nhuyễn nấu chín cho ăn tập trung vào sàng ăn để dễ kiểm soát hàm lượng thức ăn. Cho ăn ngày 02 lần. Liều lượng 7% trọng lượng thân
  • Tháng thứ 02: 40% cám gạo + 60% cá xay nhuyễn nấu chín, rải quanh bờ ao. Với 6% trọng lượng thân
  • Tháng thứ 03 trở lên: 50% cám gạo + 50% cá, xay nhuyễn, nấu chín vắt cục rải thức ăn quanh ao. Lượng thức ăn 5 – 4 – 3 % trọng lượng thân.
  • Ngoài ra bổ sung thêm rau, cỏ, bèo các loại .. cá sẽ lớn nhanh và giảm hệ số thức ăn tinh.

Chăm sóc và thu hoạch

  • Cá rô phi là loại phàm ăn, để cá chóng lớn chăm sóc cho ăn phải đều đặn, đủ số lượng và chất lượng
  • Phải thường xuyên kiểm tra bờ cống chống rò rỉ và mưa tràn bờ cá đi mất
  • Thay nước: khi ao nước quá bẩn, mỗi lần thay từ 1/3 – 2/3 lượng nước trong ao
  • Thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường của ao nuôi cá: nhiệt độ, ôxy, pH, độ trong…để có kế hoạch xử lý môi trường
  • Theo dõi sức khoẻ, hoạt động của cá vào các buổi sáng sớm.
  • Thu hoạch: Sau 5-6 tháng nuôi cá đạt cỡ 0,4 – 0,5 kg/con tiến hành thu hoạch. Có thể thu hoạch toàn bộ hoặc đánh tỉa cá lớn nuôi tiếp các nhỏ.
  • Bảo quản cá sau khi thu hoạch: bắt cá thả vào giai hoặc bể để giữ sống, có thể dùng máy sục khí thường xuyên cho cá sống và thải phân rồi mới đóng túi chuyển đi

Theo Báo Khuyến Nông (21/05/2024)

ky-thuat-nuoi-ca-tra-dung-chuan-an-toan-sinh-hoc-ca-tra-2-fwk300-1

Một số bệnh thường gặp ở cá tra

MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CÁ TRA

Bệnh ký sinh trùng

  1. Bệnh trùng bánh xe
  • Do trùng Trichodina spp ký sinh trên thân hoặc mang.
  • Trên thân cá có lớp màu hơi trắng đục, da cá sậm lại, mang cá nhợt nhạt, cá giảm ăn và nổi đầu từng đàn trên mặt nước bơi đảo loạn lòng vòng, chìm xuống đáy rồi chết.
  • Phòng và trị: Dùng muối 2 – 3% (20 – 30g muối/lít nước) hoăc dùng Sulphat đồng (CuSO4) với liều 0,5 – 0,7 ppm/ m3 (0,5 – 0,7 g/m3) tạt đều khắp ao.
  1. Bệnh trùng quả dưa
  • Do trùng Ichthyophthyrius multicifillis ký sinh trên da, mang và vây.
  • Da, mang và vây cá có nhiều nhớt màu sắc nhợt nhạt, cá bệnh nặng có thể thấy trùng bám thành các hạt lấm tấm nhỏ màu trắng đục. Cá bệnh nổi đầu từng đàn trên mặt nước, bơi lờ đờ yếu ớt, thường tập trung chỗ nước mới.
  • Phòng và trị bệnh: Dùng Formol với liều lượng 25 – 30ml/m3, sau 3 ngày thay 75% nước và trị bằng formol thêm lần nữa.
  1. Bệnh do sán lá đơn chủ
  • Do 2 giống Dactylogyrus (sán lá 16 móc) và Gylodactylus (sán lá 18 móc) ký sinh trên mang cá. – Cá thường nổi đầu trên mặt nước, tập trung chỗ nước mới. Khi bị trùng bám nhiều, mang và da có nhiều nhớt, mang có màu màu hồng nhạt, màu trắng hoặc thối rữa.
  • Phòng và trị bệnh: Có thể dùng Formol với liều lượng 25 – 30ml/m3. Ngày hôm sau thay 50% lượng nước và xử lý thêm lần nữa nếu cá chưa hết hẳn, hoặc có thể dùng muối ăn với nồng độ 3 – 4% (30 – 40g muối/lít nước) để xử lý.
  1. Bệnh nội ký sinh
  • Do giun tròn (Nemathelminthes), giun đầu móc (Acanthocepphala) ký sinh trong ruột cá.
  • Giun ký sinh trên niêm mạc ruột hút chất dinh dưỡng làm cho cá gầy yếu, sinh trưởng kém, gây viêm thủng ruột, tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm tấn công.
  • Phòng và trị bệnh: Trước khi nuôi cá cải tạo ao để diệt trứng giun. Có thể dùng các sản phẩm trị nội ký sinh trùng được phép lưu hành trên thị trường.

Bệnh vi khuẩn

  1. Bệnh xuất huyết (bệnh đốm đỏ)
  • Do vi khuẩn Aeromonas hydrophyla gây ra.
  • Xuất hiện những đốm đỏ quanh miệng, nắp mang và bụng, hậu môn sưng lồi, bụng trương to và có chứa dịch màu vàng hoặc màu đỏ bầm.
  • Phòng trị bệnh: Tránh làm xây xát cá, nuôi mật độ nuôi quá dày. Dùng thuốc tím (KMnO4) liều dùng là 3 – 5g/m3 nước đối với cá nuôi ao và 10g/m3 nước đối với cá nuôi bè. Xử lý lập lại sau 3 ngày, định kỳ một tuần, hai tuần hoặc một lần/tháng tuỳ thuộc vào tình trạng sức khỏe cá.
  • Dùng thuốc trộn vào thức ăn:

+ Oxytetracyline: 55 – 77 mg/kg thể trọng cá nuôi, cho ăn 7 – 10 ngày, nên hạn chế sử dụng.
+ Kanamycin: 50 mg/kg cá nuôi, cho ăn 7 ngày.

+ Nhóm Sulfamid: 150 – 200mg/kg thể trọng đàn cá, cho ăn 10 – 20 ngày.

  1. Bệnh phù mắt
  • Do vi khuẩn Aeromonas sobria gây ra.
  • Cá nhiễm bệnh sẽ bơi lờ đờ trên mặt nước, mắt xuất huyết và xưng nặng.
  • Phòng và trị bệnh: Áp dụng biện pháp phòng bệnh chung.
  • Cách trị: Thay 50% lượng nước và bón vôi 4 – 6kg/100m3 nước. Có thể dùng thuốc giống như tri bệnh xuất huyết.
  1. Bệnh mủ gan
  • Do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây ra.
  • Cá gầy mắt hơi lồi, cá bệnh nặng bỏ ăn bơi lờ đờ trên mặt nước và tỷ lệ chết cao, dấu hiệu bên ngoài không rõ ràng, xuất hiện nhiều đốm trắng đục trên gan, thận và tỳ tạng.
  • Phòng và trị bệnh: Áp dụng biện pháp phòng bệnh chung.
  • Cách trị: Thay 50% lượng nước và bón vôi 4 – 6kg/100m3 nước. Dùng 1 trong 3 loại kháng sinh sau florphenicol, doxycyclin. Liều dùng 0,5 – 1g/1kg thức ăn. Có thể bổ sung thêm Vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho cá.
  1. Bệnh trắng da
  • Do vi khuẩn Flexibacter sp gây ra.
  • Cá bị nhiễm bệnh thường bỏ ăn, gốc vây lưng xuất hiện vết đốm trắng sau đó lan dần đến cuống đuôi và toàn thân. Cá bị bệnh nặng thường bơi lờ đờ ngang mặt nước, rồi lộn đầu xuống và chết.
  • Phòng trị: Áp dụng biện pháp phòng bệnh chung.
  • Cách trị: Trộn Enrofloxacin, colistin 0,5 – 1g/kg thức ăn cho ăn liên tục 5 – 7 ngày. Hoăc dùng chlorin phun đều khắp ao với liều 1 g/m3.

Theo Báo Khuyến Nông (20/05/2024)